Ngoại trừ những quy định pháp luật về hôn nhân dưới thời phong kiến thì nhà nước ta từ năm 1950 cho đến nay đã ban hành 05 văn bản pháp luật hôn nhân gia đình, cụ thể như sau: Sắc lệnh số 97 ngày 22/05/1950 (có hiệu lực ngày 06/6/1950); Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Bài này sẽ bình luận đôi nét về Luật hôn nhân và gia đình năm 1959
Luật hôn nhân và gia đình năm 1959: có hiệu lực ngày 13/01/1960 và hết hiệu lực ngày 03/01/1987 đối với Miền Bắc; có hiệu lực 25/3/1977 hết hiệu lực ngày 03/01/1987 đối với Miền Nam.
Nội dung của luật còn khá thô sơ tổng cộng chỉ có 35 điều khoản tuy nhiên vẫn chi tiết hơn so với Sắc lệnh số 97, Sắc lệnh chưa đề cập đến chế độ một vợ một chồng và việc đăng ký kết hôn. Đây là văn bản luật làm nền tảng xóa bỏ những hủ tục tàn dư phong kiến, hướng đến tự do hôn nhân ví dụ như:“Xoá bỏ những tàn tích còn lại của chế độ hôn nhân phong kiến cưỡng ép, trọng nam khinh nữ, coi rẻ quyền lợi của con cái”; “Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi, đánh đập hoặc ngược đãi vợ. Cấm lấy vợ lẽ.”
Một vài điều khoản mà tôi cảm thấy khá hay như :
– Điều 8 “Đàn bà goá có quyền tái giá; khi tái giá, quyền lợi của người đàn bà goá về con cái và tài sản được bảo đảm.”. Pháp luật phong kiến đề cao việc “trinh tiết” vì vậy việc “phu tử tòng tử” được xem là chuẩn mực.
– Điều 10 “Những người sau đây không được kết hôn: bất lực hoàn toàn về sinh lý; mắc một trong các bệnh hủi, hoa liễu, loạn óc, mà chưa chữa khỏi.” Lý do cấm liên quan đến bệnh lý. Vấn đề này tôi nghĩ vì nhiều nguyên nhân do bối cảnh xã hội lúc ấy
– Điều 12: “Trong gia đình, vợ chồng đều bình đẳng về mọi mặt”. Thực tế bối cảnh xã hội nước ta cho đến hiện tại vẫn còn mang nặng tư tưởng phong kiến lạc hậu. Xem nhẹ vai trò của người phụ nữ, người vợ. Tư tưởng trọng nam khinh nữ đến bây giờ vẫn còn nhiều. Việc quy định về quyền bình đẳng của vợ chồng là một bước tiến lớn
– Điều 17: “Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi nấng, giáo dục con cái. Con cái có nghĩa vụ kính yêu, săn sóc, nuôi dưỡng cha mẹ.” Đây là một trong những điều khoản trong chương 4 nói về mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái
– Điều 27 “Trong trường hợp người vợ có thai, chồng chỉ có thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh đẻ được một năm. Điều hạn chế này không áp dụng đối với việc xin ly hôn của người vợ.” Việc này nhằm đảm bảo trách nhiệm của người chồng đối với người vợ và con cái.
– Điều 28 “Khi ly hôn, cấm đòi trả của” như vậy là chia tay đòi quà đã có từ xa xưa. Điều luật này nghe thì buồn cười nhưng giai đoạn trước việc đòi của hồi môn khi ly hôn là chuyện bình thường.
– Điều 32 “Khi ly hôn, việc giao cho ai trông nom, nuôi nấng và giáo dục con cái chưa thành niên, phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con cái. Về nguyên tắc, con còn bú phải do mẹ phụ trách. Người không giữ con vẫn có quyền thăm nom, săn sóc con.” Việc quy định con còn bú phải do mẹ phụ trách nuôi dưỡng là một quy định mang tính định tính, theo kinh nghiệm dân gian là nhiều.
– Điều 29 “Khi ly hôn, việc chia tài sản sẽ căn cứ vào sự đóng góp về công sức của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia đình. Lao động trong gia đình được kể như lao động sản xuất. Khi chia phải bảo vệ quyền lợi của người vợ, của con cái và lợi ích của việc sản xuất.” Việc chia tài sản khi ly hôn hoặc Khi một bên chết trước, nếu tài sản cần chia thì được chia theo Điều này.
VT
Tải văn bản: Tại đây