Thời hiệu khởi kiện trong vụ án hành chính là gì?
Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì cơ quan, tổ chức, cá nhân mất quyền khởi kiện. Việc xác định chính xác thời hiệu là điều kiện tiên quyết cho việc giải quyết vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho người khởi kiện.
Cụ thể, Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì vấn đề thời hiệu khởi kiện được quy định như sau:
“1. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện”.
- Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:
- a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc;
- b) 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
- c) Từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được thông báo kết quả giải quyêt khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri đến trước ngày bầu cử 5 ngày.
- Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau:
- a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
- b) 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại.
- Trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hiệu khởi kiện.
- Các quy định của Bộ luật dân sự về cách xác định thời hạn, thời hiệu được áp dụng trong tố tụng hành chính.…”
Tuy nhiên, trong thực tiễn giải quyết các vụ án hành chính vẫn còn một vài vấn đề chưa được làm rõ, dẫn đến việc không thống nhất cách xác định thời hiệu.
1. Thời hiệu khởi kiện “01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật TTHC năm 2015.
Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Nghị quyết số 02/2011) hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật TTHC để xác định thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính về xác định trường hợp “nhận được” hoặc “biết được quyết định hành chính” Điều 12 Nghị quyết 02/2011 trên quy định:“Với quyết định hành chính, nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân bị tác động trực tiếp và là đối tượng được nhận quyết định hành chính thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày họ nhận được quyết định đó; nếu không phải là đối tượng bị tác động trực tiếp và không phải là đối tượng được nhận và thực tế là họ không nhận được quyết định hành chính thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày họ biết được quyết định hành chính đó”. Nhưng văn bản này hướng dẫn thi hành Luật TTHC năm 2010 và đã hết hiệu lực pháp luật.
Vấn đề đặt ra là “biết được” là biết được tên, số hiệu, ngày cấp của quyết định hành chính hay biết được nội dung của quyết định hành chính? Vì nếu không phải là đối tượng được nhận quyết định hành chính và thực tế không nhận được quyết định hành chính nên có thể thời điểm cơ quan, tổ chức, cá nhân biết được tên của quyết định hành chính và biết được nội dung của quyết định hành chính đó là hai thời điểm khác nhau. Vì vậy biết được nhưng không khởi kiện, không có văn bản thể hiện ngày tháng năm biết được quyết định hành chính nên khi giải quyết Tòa án sẽ phụ thuộc vào lời khai của người khởi kiện là “biết được” ngày tháng năm nào làm căn cứ xác định thời hiệu khởi kiện, đây là vấn đề không chặt chẽ và là nguyên nhân phát sinh các khiếu kiện hành chính.
Thêm một trường hợp nữa, nếu đối tượng nhận quyết định hành chính biết được số hiệu, biết được một phần hoặc tất cả nội dung quyết định hành chính nhưng họ là đối tượng bị tác động trực tiếp và là đối tượng nhận quyết định hành chính,hiện tại chưa nhận quyết được quyết định hành chính thì xác định thời điểm để tính thời hiệu khởi kiện như thế nào? Ví dụ: Ngày 01/01/2017 ông A thông qua bà B biết được quyết định hành chính của UBND huyện X ban hành tác động trực tiếp tới quyền sử dụng đất của mình, đến ngày 01/6/2018 thì ông A khởi kiện yêu cầu hủy QĐHC đó, kể từ thời điểm ông A biết được quyết định hành chính thì ông A vẫn chưa nhận được quyết định này. Vậy thời hiệu khởi kiện ở đây xác định như thế nào là đúng. Nếu xác định là thời hiệu khởi kiện tính từ thời điểm nhận được quyết định thì cho đến nay ông A vẫn không nhận được quyết định? Còn nếu xác định thời hiệu khởi kiện là thời điểm biết được thì đã quá thời hạn 01 năm luật định.
2. Khoản 3 Điều 116 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu giải quyết khiếu nại là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai; và là 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời khiếu nại”.
Có thể thấy, điều khoản này mới chỉ quy định về cách xác định thời điểm tính thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính trong trường hợp có quyết định giải quyết khiếu nại và không giải quyết khiếu nại mà chưa đề cập về cách xác định thời điểm tính thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính trong trường hợp người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ra quyết định đình chỉ giải quyết khiếu nại.
3. Quy định về thời hiệu khởi kiện còn mâu thuẫn với quy định pháp luật khác có liên quan.
Khi giải quyết vụ án dân sự, Tòa án xác định có quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật thì theo yêu cầu của đương sự Tòa án xem xét hủy bỏ quyết định đó (Điều 34 BLTTDS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2019). Theo Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 6/01/2014, hướng dẫn thi hành Điều 32a của BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011, tại Điều 5 quy định “Tòa án không áp dụng thời hiệu quy định trong pháp luật tố tụng hành chính khi xem xét yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật”.
Do đó, khi xem xét yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật, Tòa án cũng không xem xét về thời hiệu, trong trường hợp này cùng là quyết định hành chính (chẳng hạn như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) nhưng nếu đương sự yêu cầu hủy quyết định đó trong vụ án dân sự về tranh chấp quyền sử dụng đất thì Tòa án xem xét giải quyết mà không cần tính đến yếu tố thời hiệu. Nhưng nếu khởi kiện thành vụ án hành chính độc lập thì Tòa án lại không thể thụ lý, nếu đã thụ lý thì phải đình chỉ vì không còn thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 116 LTTHC năm 2015. Nguyên nhân của bất cập này là do trong công tác xây dựng pháp luật, tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn tồn tại, gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật, dẫn đến tình trạng không bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và thiếu tính ổn định của hệ thống pháp luật.
4. Nhiều trường hợp đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện do xác định thời hiệu khởi kiện không đúng quy định của pháp luật do không xem xét các quyết định hành chính có liên quan
Như đã trình bày ở trên thì thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính là 01 năm kể từ ngày nhận hoặc biết được quyết định hành chính đó. Tuy nhiên, đối với quyết định hành chính có liên quan đến quyết định bị khởi kiện thì không xem xét thời hiệu. Trong thực tiễn xét xử, nhiều Tòa án đã không xem xét các quyết định hành chính có liên quan đến quyết định hành chính bị khởi kiện vì cho rằng các quyết định này đã hết thời hiệu khởi kiện nên không xem xét, làm cho vụ án không được giải quyết toàn diện, triệt để, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự trong vụ án. Sở dĩ có tình trạng như vậy là xuất phát từ việc pháp luật không quy định về vấn đề này, từ đó dẫn đến sự áp dụng không thống nhất giữa các Tòa án, có Tòa án áp dụng rập khuôn quy định về thời hiệu khởi kiện đó là cứ hết thời hiệu khởi kiện thì sẽ không xem xét nữa, có Tòa án thì lại xem xét các quyết định hành chính có liên quan dù có hết thời hiệu khởi kiện hay không.
Theo hướng dẫn tại mục 5 văn bản Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Chánh án TANDTC: “Trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có thẩm quyền xem xét tính hợp pháp đối với tất cả các quyết định hành chính khác có liên quan đến quyết định hành chính bị khởi kiện mà không phụ thuộc vào việc các quyết định này còn hay hết thời hiệu khởi kiện”. Tuy vậy, đây chỉ là văn bản hành chính chứ không phải là văn bản quy phạm pháp luật nên không có giá trị ràng buộc thống nhất cho Tòa án các cấp. Theo lẽ đó mà nhiều vụ án vì không xem xét các quyết định hành chính có liên quan nên đã bỏ qua mấu chốt giải quyết vụ án, cũng là nguyên nhân góp phần dẫn đến tình trạng hủy án.
VT
Trên đây là chia sẻ của Luật Emerald về “ Một số vướng mắc về thời hiệu khởi kiện trong vụ án hành chính”. Nếu Quý vị cần giải đáp thắc mắc hoặc cần tư vấn về các vấn đề pháp lý, Quý vị có thể liên hệ trực tiếp đến hotline 1900 299 289 hoặc gửi câu hỏi đến website emeraldlawfirm.vn hoặc email Emerald.VAA@gmail.com để được hỗ trợ, giải đáp kịp thời. Trân trọng cảm ơn.