Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở có vị trí quan trọng trong đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Như vậy, quy định hiện nay về tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở như thế nào? Qúy bạn đọc hãy cùng Luật Emerald tìm hiểu nhé!
1. Quyền tự do lập hội
Tự do lập hội là một trong những quyền con người cơ bản và cốt lõi. Người lao động và người sử dụng lao động có quyền tự do lập hội hoặc tham gia các tổ chức, điều này đã được ghi nhận tại Điều 2 Công ước số 87 của ILO: “Người lao động và người sử dụng lao động, không phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào, đều không phải xin phép trước mà vẫn có quyền được tổ chức và gia nhập các tổ chức theo sự lựa chọn của mình, với một điều kiện duy nhất là phải tuân theo điều lệ của chính tổ chức đó”.
Tại Việt Nam, quyền tự do lập hội được ghi nhận tại Điều 25 Hiến pháp 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Song song với đó, Bộ luật lao động năm 2019 cũng điều chỉnh về quyền tự do lập hội của người lao động và người sử dụng lao động, theo đó, tại điểm c khoản 1 Điều 5 BLLĐ 2019: “Người lao động có quyền thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức đại diện người lao động, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy định của pháp luật; yêu cầu và tham gia đối thoại, thực hiện quy chế dân chủ, thương lượng tập thể với người sử dụng lao động và được tham vấn tại nơi làm việc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình; tham gia quản lý theo nội quy của người sử dụng lao động”.
2. Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở
Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở được quy định tại khoản 3 Điều 3 Bộ luật lao động năm 2019, theo đó, tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở là tổ chức được thành lập dựa trên cơ sở tự nguyện của người lao động tại một đơn vị sử dụng lao động nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở gồm: (1) Công đoàn cơ sở và (2) Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp.
– Công đoàn cơ sở thuộc hệ thống tổ chức của Công đoàn Việt Nam được thành lập, giải thể, tổ chức theo Luật Công đoàn.
– Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp được thành lập và hoạt động hợp pháp sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký.
– So sánh Công đoàn và Tổ chức người lao động tại doanh nghiệp:
|
Công đoàn |
Tổ chức người lao động tại doanh nghiệp |
| Ra đời lâu nên có hệ thống văn bản nhiều (LCĐ 2012, Điều lệ công đoàn 2020);
|
Ra đời do VN tham gia các Hiệp định thương mại tự do, do đây là một tổ chức hoàn toàn mới nên hệ thống văn bản của nó không phong phú, chỉ dừng lại ở những quy định chung tại Điều 170 đến Điều 178 BLLĐ 2019. |
| Là một tổ chức chính trị xã hội nằm trong hệ thống chính trị Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. | Là một tổ chức xã hội đơn thuần. |
| Có hệ thống tổ chức hoàn chỉnh từ cấp cơ sở đến cấp trung ương | Chỉ được tổ chức ở cấp cơ sở |
| Để thành lập CĐCS phải có ít 5 CĐV, ĐV hoặc NLĐ trở lên |
Hiện nay pháp luật chưa quy định |
Đối tượng tham gia của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở là người lao động có quốc tịch Việt Nam, người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam có nhu cầu.

3. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở trong quan hệ lao động
Khoản 3 Điều 170 Bộ luật lao động năm 2019 quy định, tổ chức công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong việc đại diện người lao động và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động.
Về mặt lý thuyết, công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, tuy nhiên, trên thực tế hai tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở không thể bình đẳng về địa vị pháp lý. Bởi lẽ, công đoàn cơ sở còn là một tổ chức chính trị – xã hội, nằm trong hệ thống chính trị của Việt Nam còn tổ chức người lao động tại cơ sở chỉ là một tổ chức xã hội đơn thuần.
Các quyền và nghĩa vụ cụ thể của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở trong quan hệ lao động được ghi nhận tại Điều 178 Bộ luật lao động năm 2019, đó là các quyền sau:
– Thương lượng tập thể với người sử dụng lao động;
– Đối thoại tại nơi làm việc
– Được tham khảo ý kiến xây dựng và giám sát việc thực hiện thang lương, bảng lương, mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động và những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích của người lao động là thành viên của mình.
– Đại diện cho người lao động trong quá trình giải quyết khiếu nại, tranh chấp lao động cá nhân khi được người lao động ủy quyền.
– Tổ chức và lãnh đạo đình công;
– Tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật của cơ quan, tổ chức đăng ký hoạt động hợp pháp tại Việt Nam nhằm tìm hiểu pháp luật về lao động; về trình tự, thủ tục thành lập tổ chức đại diện người lao động và việc tiến hành các hoạt động đại diện trong quan hệ lao động sau khi được cấp đăng ký.
– Được người sử dụng lao động bố trí nơi làm việc và được cung cấp thông tin, bảo đảm các điều kiện cần thiết cho hoạt động của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở.
– Các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
4. Các hành vi bị nghiêm cấm đối với người sử dụng lao động
Điều 175 Bộ luật lao động năm 2019 quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với người sử dụng lao động liên quan đến tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở, đó là các hành vi: (1) Phân biệt đối xử đối với người lao động, thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở vì lý do thành lập, gia nhập hoặc hoạt động tổ chức đại diện người lao động và (2) Can thiệp, thao túng quá trình thành lập, bầu cử, xây dựng kế hoạch công tác và tổ chức thực hiện các hoạt động của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở, bao gồm cả việc hỗ trợ tài chính hoặc các biện pháp kinh tế khác nhằm làm vô hiệu hóa hoặc suy yếu việc thực hiện chức năng đại diện của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở hoặc phân biệt đối xử giữa các tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở.
Quy định tại Bộ luật lao động trong việc bảo vệ tổ chức đại diện người lao động trước người sử dụng lao động là một trong những quy định quan trọng nhất, đảm bảo sự hài hòa trong pháp luật Việt Nam với các quy định của ILO, cụ thể tại Công ước 98 về áp dụng các nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể.

Đồng thời, ILO cũng nhấn mạnh vai trò của các chế tài đủ nghiêm khắc và răn đe. Ủy ban về Tự do hiệp hội của ILO nhấn mạnh việc chỉ quy định về các hành vi bị cấm là chưa đủ, mà cần phải có quy định về trình tự, thủ tục giải quyết những sai phạm và hệ thống chế tài đủ nghiêm khắc và răn đe. Đây là tiền đề cho sự ra đời của Nghị định 12/2022/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Nghị định 12/2022/NĐ-CP cụ thể tài Điều 39, đã quy định một hệ thống chế tài đã có sức răn đe đối với người sử dụng lao động. Như vậy, hệ thống các vi phạm song song với hệ thống chế tài đã được xây dựng gần như hoàn thiện đã tạo tiền đề cho sự hoạt động của các tổ chức đại diện người lao động ở cơ sở một cách có hiệu quả.
Nhựt Anh
Trên đây là bình luận, chia sẻ của Luật Emerald về “Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở”. Nếu Quý vị cần giải đáp thắc mắc hoặc cần tư vấn về các vấn đề pháp lý, Quý vị có thể liên hệ trực tiếp đến hotline 1900 299 289 hoặc gửi câu hỏi đến website emeraldlawfirm.vn hoặc email Emerald.VAA@gmail.com để được hỗ trợ, giải đáp kịp thời. Trân trọng cảm ơn.